ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ
TÀO SƠN Thôn 6, xã Tào Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An
Điện thoại: 0388.725.524
Email: Taosonanhson@gmail.com
I. CƠ CẤU TỔ CHỨC:
Đảng
bộ xã Tào Sơn có 15 chi bộ với 200 đảng viên, trong đó 12 chi bộ nông thôn, 3
chi bộ trường học, năm 2013 Đảng bộ đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh. Toàn
Đảng bộ quyết tâm thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ
2010 - 2015; phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010
- 2015.
Chính
quyền nhân dân (HĐND và UBND xã) có nhiều đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo điều
hành quản lý nhà nước; Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị (Cựu
chiến binh, Hội Nông dân, Hội LHPN, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công
đoàn), các tổ chức xã hội có nhiều chuyển biến tích cực trong phối hợp, đoàn
kết thống nhất hành động. Tất cả trở thành một khối thống nhất xuyên suốt và có
quyết tâm cao tạo thành sức mạnh tổng thể của hệ thống chính trị.
Tổ chức
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Điện thoại
|
Đảng ủy
|
Hoàng Văn Đức
|
Bí thư Đảng ủy
|
01697591816
|
Lê Xuân Hoan
|
Thường vụ trực Đảng
|
0976309795
|
HĐND xã
|
Hoàng Văn Đức
|
Chủ tịch HĐND
|
01697591816
|
Nguyễn Văn Hợp
|
PCT HĐND
|
0976346429
|
UBND xã
|
Hoàng Đình Sơn
|
PBT, Chủ tịch UBND
|
0986606423
|
Phan Sỹ Quỳ
|
PCT UBND xã
|
0979035926
|
Mai Hồng Lĩnh
|
ĐUV, CHT Quân sự
|
0978793312
|
UBMTTQ
|
Nguyễn Văn Hiệu
|
Chủ tịch UBMTTQ
|
0978969549
|
Hội CCB
|
Nguyễn Viết Dung
|
Chủ tịch Hội CCB
|
01693303405
|
Hội Nông dân
|
Hoàng Văn Cầm
|
Chủ tịch Hội
ND
|
01646966727
|
Hội Phụ nữ
|
Nguyễn Thị Hiền
|
Chủ tịch Hội Phụ nữ
|
0986730646
|
Đoàn TN
|
Nguyễn Văn Đức
|
BT Đoàn TN
|
01634438045
|
II. KHÁI
QUÁT TÌNH HÌNH CHUNG:
1. Về điều kiện tự nhiên:
a) Vị trí địa
lý
Xã Tào Sơn được hình thành và phát triển là kết quả
của quá trình vận hành của bánh xe lịch sử, là một xã miền núi nằm về phía Tả
ngạn Sông Lam cách trung tâm huyện Anh Sơn khoảng 20 km về phía đông; có
đường địa giới chung với các xã:
Phía Đông giáp với xã Ngọc
Sơn, Lam Sơn huyện Đô Lương;
Phía Tây giáp với xã Lạng
Sơn huyện Anh Sơn;
Phía Bắc giáp xã Nghĩa Hành
huyện Tân Kỳ và xã Giang Sơn Tây của huyện Đô Lương;
Phía Nam trải dài theo dọc
sông Lam khoảng 1,9 km.
Tổng diện tích đất tự nhiên
là: 2.027,68 ha; Trong đó đất Nông nghiệp 1.704,48
ha. Trong đó:
+ Đất sản xuất Nông nghiệp
665,91 ha;
+ Đất Lâm nghiệp: 1030,54
+ Đất nuôi trồng thuỷ sản:
8,03 ha.
- Đất phi nông nghiệp :
301,49 ha trong đó:
+ Đất ở: 31,34 ha;
+ Đất chuyên dùng: 170,21
ha;
+ Đất QH nghĩa địa: 24 ha;
+ Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng: 75,21 ha.
- Đất chưa sử dụng: 24,53
ha trong đó:
+ Đất bằng chưa sử dụng:
15,39 ha;
+ Đất đồi núi chưa sử dụng:
9,14 ha;
Toàn xã có 1.328 hộ với
4.902 nhân khẩu, địa bàn dân cư được phân bổ đều thành 12 thôn, đời sống nhân
dân chủ yếu là sản xuất nông nghiệp.
b) Về
địa hình
Địa
hình dạng đồi núi, thung lũng vừa và thấp xen trung du đồng bằng
Dạng
đồi núi: Địa hình dạng này liên kết thành vòng tròn bao quanh ôm bọc toàn xã
theo kiểu lòng chảo và cửa ngõ; Bắt đầu từ Cồn Trệt (cột mốc số 24 Giáp ranh xã
Ngọc Sơn huyện Đô Lương kéo vòng về phía bắc lên phía tây quay lại phía nam là
đỉnh Cồn Trình tạo thành vòng khép).
Dạng
đồng bằng: Địa hình dạng này chủ yếu là trung tâm của lòng chảo và các thung
lũng cùng với diện tích bãi bồi dọc Tả ngạn Sông Lam.
c) Về
thổ nhưỡng
Địa
bàn xã Tào Sơn về thổ nhưỡng được phân ra hai nhóm như sau:
Đất phù
sa không được bồi đắp thường xuyên loại đất này có thành phần chủ yếu là mềm thịt
nhẹ đến trung bình, thích hợp cho việc trồng lúa nước và một số cây trồng hàng
năm khác phân bố đều trên các cánh đồng bằng, thung lũng và dọc sông Lam của
xã.
Đất
feralit phát triển trên phiến sét có khoảng 1.119,40 ha chủ yếu là đất Feralit
đỏ vàng, phát triển trên đá thạch sét và đá biến chất, tầng đất trung bình.
Vùng đất này thuận lợi cho việc phát triển cho trồng cây lâm nghiệp như: keo, mỳ,
cây lấy gỗ.
d) Về
khí hậu, thủy văn
Tào
Sơn có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, mang đặc trưng của khí hậu miền Tây Nghệ
An. Có hai mùa rõ rệt, về mùa Hè nắng nóng gay gắt, nhiệt độ cao và kèm theo
mưa, sấm sét, lốc xoáy, gió nam Lào thổi mạnh làm ảnh hưởng đến thời vụ và năng
suất sản lượng trong sản xuất nông nghiệp cũng như các hoạt động khác. Về mùa đông
thì nhiệt độ xuống thấp kèm theo mưa dầm nên ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và
phát triển của cây trồng vật nuôi.
Thủy
văn: Là xã vùng núi, nguồn nước dồi dào, hệ thống sông suối hồ đập phân bố dày
đặc trong đó có thể kể đến Sông Lam, các khe suối như: khe Vang, khe Trúc, khe
Mỳ, khe Cấy, khe Sú...và nhiều hồ đập nhỏ: Đập Bạc, đập Cấm, đập Cạn, đập Nát,
đập Khe cầu, đập Sơn trà... Đặc biệt có 2 con đập lớn là Đập Khe chung một trong số công trình lớn nhất của huyện
được xây dựng năm 1967, sau 2 năm đội cơ giới thủy lợi Nghệ An đưa ô tô, máy
ủi, máy xúc, máy san đầm; cùng hàng ngàn ngày công lao động của thanh niên,
nhân dân các xã trong huyện Anh Sơn góp sức làm nên công trình Đập Khe Chung;
còn đập Cây Hồng được khởi công xây dựng năm 2010 với nguồn kinh phí cấp trên
là 5,730 tỷ đồng, hiện nay công trình xây dựng xong và đưa vào sử dụng. Hai con
đập này cung cấp cơ bản nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp và
các sinh hoạt dân sinh khác.
2. Về tình hình kinh
tế - xã hội
Tình hình Kinh tế - Xã hội có nhiều khởi sắc, nhịp độ phát triển năm sau
cao hơn năm trước; lĩnh vực Văn hoá - Xã hội phát triển, đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; an ninh chính trị ổn định,
trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững. Thu nhập bình quân
đầu người năm 2013 là 17 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm, năm
2013 là 14%. Xã đạt 9/19 tiêu chí xây dựng Nông thôn mới.
Đời sống nhân dân Tào Sơn chủ yếu là sản xuất Nông
nghiệp, cây trồng chính là Lúa nước, ngô, khoai, sắn... nhưng hơn 10 năm trở
lại đây nhờ khoa học, kỹ thuật ngày càng phát triển, nhận thức tư duy của cán
bộ và nhân dân ngày càng càng tiến bộ và đổi mới, tổ chức xây dựng phát triển
kinh tế có trọng tâm trọng điểm như thực hiện chuyển đổi ruộng đất ô thửa nhỏ
thành ô thửa lớn, quy hoạch giao thông thủy lợi nội đồng, phát triển mô hình
sản xuất cánh đồng mẫu lúa..; mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, mùa vụ, đưa giống
mới, cây trồng mới có năng suất cao vào sản xuất, trồng tăng vụ trên đơn vị
diện tích như: Lúa, Ngô, Dưa leo, Bầu, Bí...ngoài ra các hộ còn phát triển thêm
kinh tế đồi rừng như trồng cây nguyên liệu kết hợp phát triển chăn nuôi như
Trâu, Bò, Lợn, Cá, Gia cầm..; sản xuất mô hình dịch vụ vừa và nhỏ như mô hình
gạch nung, gạch bê tông, mộc dân dụng, hàn xì, kinh doanh buôn bán... Từ đó đời
sống của nhân dân ngày càng khấm khá, xóa được hộ đói, giảm hộ nghèo, thiết chế
cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển và từng bước hoàn thiện, nhờ được sự quan tâm nhà nước cấp trên bằng các dự án đầu tư và huy
động đóng góp của nhân dân theo cơ chế Nhà nước và nhân dân cùng làm, do đó đường
giao thông nông thôn được mở mang nhựa và bê tông hóa đã tạo điều kiện thuận
lợi cho nhân dân trong sản xuất và sinh hoạt. Toàn xã đã làm được hơn 3,3 km
đường nhựa, 13km đường bê tông chuẩn loại A, xã có Trạm bơm điện, hai đập phục
vụ nước tưới kiên cố (Đập khe chung, Đập cây Hồng), 6,55 km kênh mương kiên cố,
29 phòng học kiên cố hóa, có 4 trạm biến áp, nhà bia ghi tên liệt sỹ khang
trang, xã chuẩn quốc gia y tế, Bưu điện văn hóa xã, nhà văn hóa đa chức năng,
11/12 thôn có nhà văn hóa sinh hoạt, các Di tích lịch sử văn hóa hóa được bảo
tồn và phát huy tốt, Đài Truyền thanh cơ sở xã hoạt động phát huy hiệu quả, Trụ
sở làm việc 2 tầng với thiết chế và nội thất làm việc khá đầy đủ, nhà Truyền
thống, chợ nông thôn được đầu tư xây dựng mới...tất cả đều đạt chuẩn… Trong đó
do làm tốt công tác quy chế dân chủ cơ sở nên đã huy động nhân dân đóng góp
hàng tỷ đồng và huy động được hàng nghìn ngày công lao động công ích phúc lợi
xã hội.
Văn hóa - Xã hội phát triển mạnh mẽ, 9/12
thôn được công nhận danh hiệu “Làng văn hóa”; 3/3 đơn vị trường học được công
nhận “Đơn vị văn hóa” ; trong đó có 3 thôn được công nhận “Làng văn hóa” cấp
tỉnh. Tỷ lệ Gia đình văn hóa hàng năm đạt 75%. mỗi thôn có hương ước phù hợp
điều kiện thôn mình; Chất lượng giáo dục, y tế được nâng lên rõ rệt, hoàn thiện phổ cập
Tiểu học, Trung học cơ sở, Trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức độ một, xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế; Công tác Dân số KHHGĐ
ngày càng được quan tâm và có bước chuyển biến tích cực; môi trường được cải thiện, tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch hợp vệ
sinh trên 85%; Công tác chính sách xã hội và người có công được
thực hiện kịp thời đảm bảo đúng nguyên tắc; Phong trào đền ơn đáp nghĩa và các
hoạt động nhân đạo từ thiện được nhân dân hưởng ứng tích cực.
Quốc phòng an ninh: An ninh chính trị trật tự an
toàn xã hội được đảm bảo, trong nhiều năm qua công tác quốc phòng, an ninh luôn
được đánh giá cao là địa bàn sạch về các tệ nạn xã hội.
3.
Lịch sử phát triển:
Xã Tào Sơn được hình thành
và phát triển theo từng giai đoạn và thời kỳ lịch sử gắn với nhiều sự kiện khác
nhau, xác định niên đại định cư cho thấy một
số dòng họ đến đất Tào Sơn khai dân lập ấp xây dựng thôn làng kể từ năm Cảnh Hưng
1702 họ Đào ở Lam Sơn huyện Đô Lương chuyển đến và năm 1919 họ Nguyễn Viết ở
Nam Đàn cũng chuyển đến định cư lập nghiệp và một số dòng họ lớn khác như Họ
Hoàng, Họ Đinh, họ Ngô... đất lành chim đậu, mảnh đất Tào Sơn có núi sông, có
ruộng đồng màu mỡ nên sớm hội tụ người dân và sớm hình thành làng xã, từ đó đến
nay trong xã có tới trên 22 dòng họ khác nhau cùng sống chung trên địa bàn đó
là cơ sở hình thành khối đại đoàn kêt cộng đồng dân cư, từ khi hình thành đến
nay lịch sử xã Tào Sơn có khoảng trên 300 năm xây dựng và phát triển. Vào khoảng thế kỷ XVI xã Tào Sơn mới chỉ có 3 làng: Làng Cẩm Hương,
làng Hữu Lệ và làng Tào Điền và khoảng năm 1890 xã được gọi là xã Tào Điền, sau cách mạng tháng 8 năm
1945 thành công, tình hình cách mạng phát triển và cấp trên có chủ
trương nhập các xã nhỏ thành xã lớn do vậy cụm 4 xã Cao - Tào - Lĩnh - Lạng được nhập thành một xã lớn lấy tên là
xã Lạng Điền. Đến năm 1954
Đảng và Nhà nước lại có chủ trương chia tách xã lớn thành các xã nhỏ, xã Lạng Điền lại được chia thành 4 xã
nhỏ gồm: Cao - Tào - Lĩnh - Lạng,
từ đó xã Tào Sơn được thành
lập. Xã Tào Sơn lúc bấy giờ có 2 làng: Làng Tào Điền (gọi là Làng Mỹ Tiến)
và Làng Hữu Lệ (gọi là Làng Nguyễn Thường), gắn liền với làng là Đình làng nơi
hội họp, sinh hoạt và tổ chức các hoạt động của Làng, do đó làng Tào Điền có Đình
Tào Điền, Làng Hữu Lệ có Đình Hữu Lệ; xã Tào Sơn vào thời điểm trước tháng 3
năm 1947 đến tháng 12 năm 1953 có tên gọi là Tào Điền, dưới xã có 3 làng Làng
Tào Thôn, làng Hữu Lệ, làng Cẩm Hương; Từ tháng 1 năm 1954 (sau khi tách khỏi
xã lớn Lãng Điền) đến tháng 9 năm 1959 dưới xã có làng, dưới làng có 11 xóm:
Xóm Bàng, xóm Trước, xóm Sau, xóm Cẩm Hương, xóm Hương Sơn, xóm Xuân Thủy, xóm
Đông, xóm Nam, xóm Đình, xóm Giếng, xóm Trên. Từ tháng 4 năm 1959 đến tháng 4
năm 1965 xã Tào Sơn chỉ còn 2 làng: Làng Tào Thôn, Làng Hữu Lệ ( Không còn Làng
Cẩm Hương) và 7 xóm, một Hợp tác xã: Xóm Bàng, xóm Giếng, xóm Nam, xóm Đông,
xóm Đình, xóm Trên, xóm Xuân Thủy và Hợp tác xã Tào phong (xóm ngoài và xóm
trước); Đến tháng 5 năm 1965 xã Tào Sơn dưới xã gồm có 1 xóm và 5 hợp tác xã:
Xóm Xuân Thủy (Giữ nguyên như cũ) và các hợp tác xã Tào Phong, Quyết Tiến, Quyết
Thắng, Hồng Thắng, Tiền phong cùng với 24 hộ gia đình người Cao Sơn sang định
cư và sinh sống; Từ tháng 5 năm 1966 đến tháng 12 năm 1969 có 4 hợp tác xã: Tào
Phong, Tiền Phong, Quyết Tiến, Xuân Thủy; Từ tháng 1 năm 1970 đến tháng 10 năm
1975 xã chỉ còn hợp tác xã lớn quy mô là Hợp tác xã Tào Sơn; từ tháng 11 năm
1975 đến năm 1991 xã Tào Sơn vẫn giữ nguyên hợp tác xã Tào Sơn và thêm một số
bộ phận người dân xã Tào Sơn chuyển lên định cư sinh sống theo Quyết định số
154 của tỉnh. Sau đó trải qua thời gian lịch sử, tên gọi có sự thay đổi từ xóm
sang đội từ đội lại đổi sang xóm, xóm lớn trước năm 2000 gồm 7 xóm theo thứ tự
từ 1 đến 7 (xóm 1 gồm thôn 1 và thôn 2 ngày nay; xóm 2 gồm thôn 3 và thôn 4
ngày nay; xóm 3 gồm thôn 5 và thôn 6 ngày nay; xóm 4 là thôn 7 ngày nay; xóm 5
gồm thôn 8 và thôn 9 ngày nay; xóm 6 gồm thôn 11 và thôn 12 ngày nay; xóm 7 là
thôn 10 ngày nay. Đến năm 2000 xã tách thành 9 xóm trên cơ sở chia 2 xóm lớn là
xóm 5 lớn chia làm xóm 5 và xóm 6; xóm 6 lớn chia thành 2 xóm nhỏ là xóm 8 và
xóm 9 các xóm còn lại giữ nguyên; Đến 2006 xã chia thành 12 xóm trên cơ sở chia
3 xóm lớn là xóm 1 tách ra thành xóm 1 và xóm 10; xóm 2 tách ra làm xóm 2 và
xóm 11, xóm 3 tách ra làm xóm 3 và xóm 12, các xóm khác vẫn giữ nguyên. Đến năm
2012 UBND xã quyết định đổi tên xóm sang tên gọi bằng thôn và sắp xếp theo thứ
tự xóm 10 là thôn 1, xóm 1 là thôn 2, xóm 2 là thôn 3, xóm 11 là thôn 4, xóm 3 là
thôn 5, xóm 12 là thôn 6, xóm 4 là thôn 7, xóm 5 là thôn 8, xóm 6 là thôn 9,
xóm 7 là thôn 10, xóm 8 là thôn 11, xóm 9 là thôn 12 và toàn xã chia làm 12 thôn là tên gọi ngày
nay. Về các tên gọi địa danh đều gắn liền với tên gọi từng vùng khác nhau trên
địa bàn cụ thể như tên gọi các cánh đồng cũng đa dạng phong phú: Đồng nghẹn,
Đồng nu, Đồng bằng, Đồng rẫy, Đồng nương, Đồng bàu, Đồng xâm, Cháy, Ràng
ràng...Văn hóa làng xã Tào Sơn được bồi đắp bởi lịch sử truyền thống lầu đời,
hiện nay vẫn còn nguyên giá trị thể hiện rõ trên cơ sở các vật chứng thiêng
liêng như Đình Hữu Lệ, đình Tào Điền, Đền cả, Đền thờ Hoàng Tá Thốn, Nhà Thờ họ
Hoàng và họ Đinh tộc là những di tích tiêu biểu. Ngay từ thời kỳ lịch sử dân
tộc với chế độ Hoàng triều xã Tào Điền (Tào Sơn ngày nay) đã được phong tặng
nhiều thành tích cho dân, cho làng với 16 sắc phong của các đời vua: Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Minh Mạng,
Duy Tân, Khải Định cho thôn Hữu Lệ và xã Tào Điên ngày xưa, đây là minh chứng nổi
bật nhất của lịch sử văn hóa địa phương vẫn còn lưu giữ được.
4. Truyền thống cách mạng:
Ngay từ thời kỳ tiền khởi
nghĩa xã Tào Sơn đã có nhiều bậc tiền bối tham gia hoạt động cách mạng. Ngày
7/9/1930 Chi bộ Lương Điền của xã là Tào Điền (Tào Sơn ngày nay) và Lạng Sơn
được thành lập gồm 7 đồng chí, trong đó có đồng chí Hoàng Văn Bật người xã Tào
Điền làm Bí thư; tháng 11 năm 1940 đến tháng 12 năm 1944 hình thành Chi bộ Thủy
riêng của xã Tào Điền được thành lập gồm 7 Đảng viên do đồng chí Nguyễn Văn
Tưởn (từ 11/1940 đến 2/1941) và đồng chí Đào Văn Ba ( từ 3/1942 đến 12/1944) làm
Bí thư; tháng 1 năm 1945 đến tháng 3 năm 1947 đổi tên là Chi bộ Hưng Nguyên; từ
tháng 4 năm 1947 đến tháng 12 năm 1953 đổi tên thành chi bộ Hồng Lĩnh và từ
tháng 1 năm 1954 Đảng bộ xã Tào Sơn chính thức được hình thành và phát triển
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng.
Trong 2 cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; cùng với nhân dân cả nước, nhân dân xã Tào
Sơn đã hưởng ứng nhiệt tình và tham gia đầy đủ các phong trào góp phần vào
chiến thắng thực dân và đề quốc. Với hàng ngàn thanh niên lên đường nhập ngũ,
thực hiện vai trò hậu phương tiền tuyến hàng trăm thanh niên xung phong, dân
công hỏa tuyến tham gia vận chuyển lương thực, thực phẩm phục vụ chiến trường.
Ở hậu phương nhân dân tích cực tăng gia sản xuất và tham gia đầy đủ các chủ
trương, phong trào phát động của cấp trên trong 2 cuộc kháng chiến, xã có 91
liệt sỹ hy sinh vì đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, 174 thương binh, bệnh binh. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
vào tháng 4/1965 dân quân và nhân dân xã Tào Sơn đã lập công lớn bắt sống giặc
lái máy bay Mỹ, với thành tích này được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến
công hạng 3. Đó là thành tích đáng ghi nhận và rất đối tự hào của Đảng bộ và
nhân dân.
Trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, đất nước đổi mới, mở cửa hội nhập chung sức cán bộ và nhân
dân xã Tào Sơn đoàn kết thống nhất trên dưới một lòng, thi đua sản xuất phát
triển toàn diện kinh tế, văn hóa xã hội.
5. Tiềm năng lợi thế:
Trong những năm gần đây
Đảng bộ và nhân dân Tào Sơn đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn xây dựng quê
hương ngày càng giàu mạnh tương xứng với tiềm năng lợi thế của địa phương:
Trước hết hệ thống chính trị đoàn kết thống nhất và ngày càng được chuẩn hóa về
chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu đổi mới quê hương.
Tào
Sơn có diện tích đất tự nhiên khá lớn, có tiềm năng kinh tế cao như đất trồng
lúa, trồng màu, đất Lâm nghiệp phát triển cây nguyên liệu giấy, cây lấy gỗ.
Về
tài nguyên nước có nhiều khe suối, hồ đập và có 2 con đập lớn đập Khe chung và
đập Cây hồng đáp nhu cầu cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân có nhiều lợi
thế phát triển thành mô hình du lịch sinh thái trong tương lai; Hệ thống lưới điện được nâng cấp, toàn xã có 4 trạm
biến áp 1.500 KW đáp ứng đủ cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của nhân
dân.
Vị
trí địa lý của xã nơi tiếp giáp với nhiều địa phương của huyện bạn bên cạnh
những khó khăn phức tạp vẫn còn đó nhiều ưu thế để Cán bộ và nhân dân giao lưu,
giao thoa tiếp thu chọn lọc các giá trị văn hóa, giáo dục, thương mại...
Địa
hình và dân cư phân bổ đều
có tinh thần đoàn kết cao trong cộng đồng dân cư;
Hệ
thống giao thông thuận lợi có trục đường 7B đi qua kết nối xuyên suốt từ đầu
đến cuối xã là đầu mỗi giao thông
quan trọng cho hoạt động thương mại với trung tâm kinh tế lớn Anh Sơn, Đô Lương,
Tân Kỳ, có chiều dài gần 9 km đã và đang được nhựa hóa, hệ thống giao thông
nông thôn cơ bản được B tông hóa theo cơ chế chương trình mục tiêu Quốc gia xây
dựng Nông thôn mới, toàn xã có trên 12km đường B tông cấp A. Ngoài ra xã còn có
nhiều đầu mỗi cửa ngõ giao thông khác để mở mang phát triển.
Các hoạt động văn hóa
tâm linh gắn với các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn ngày càng được phục
hồi và phát triển. Địa bàn xã còn có nhiều di tích lịch sử văn hóa như: Đình
Hữu Lệ, đình Tào Điền, đền Cả, đền thờ Hoàng Tá Thốn đã được liệt kê vào danh
mục quản lý nhà nước tất cả đều có tiểm năng phát triển du lịch trong tương
lai. Đặc biệt Đình Hữu Lệ đã được phục dựng làm Nhà Truyền thống của xã, Đền Cả
hoạt động ngày càng quy mô, Đền Sát Hải có địa thế phù hợp du lịch tâm linh,
sinh thái và phục dựng lễ hội đua thuyền truyền thống trước đây dọc Sông Lam
trong tương lai.
Sự nghiệp giáo dục luôn được huyện xếp tốp đầu đó là cơ sở tiềm năng nguồn
lực về trí tuệ, chất lượng lao động có tính bền vững lâu dài.
An
ninh chính trị được giữ vững, trật tự xã hội được bảo đảm, Nhân dân đoàn kết
tin tưởng vào sự lãnh đạo của BCH Đảng bộ và Chính quyền có các
chủ trương cơ chế chính sách để tạo điều kiện cho cán bộ và nhân dân trong việc
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, QP- AN ngày càng phát huy có hiệu quả.
Các tổ chức trong hệ thống chính trị hàng năm đều được xếp loại xuất sắc./.
|